Động Địch Lộng đã được vua Minh Mạng ban tặng danh xưng “Nam thiên đệ tam động” – động đẹp thứ ba ở trời Nam.
Tương truyền, động Địch Lộng được một tiều phu phát hiện năm 1739. Đến năm 1990, động và chùa Địch Lộng được xếp hạng là di tích cấp quốc gia.
Động Địch Lộng nằm ở lưng chừng núi Địch Lộng, có độ cao khoảng 80 m so với chân núi. Từ chân núi lên đến cửa động phải leo lên hơn 100 bậc đá.
MINH HẢI
Đứng ở cửa động gió thổi vào nghe vi vu như tiếng sáo, nên người dân đặt tên động là Địch Lộng
MINH HẢI
Cổng Tam Quan được xây dựng ở cửa vào động
MINH HẢI
Động gồm 3 hang nối liền nhau. Từ cửa chính của động vào là hang ngoài trời, khu vực thờ Phật; tiếp đó là hang tối và hang sáng.
MINH HẢI
Hang Sáng có nhiều nhũ đá tạo thành hình tượng Phật, voi quỳ, ngựa phục…
MINH HẢI
Hang tối dài và rộng hơn. Nhũ đá trong hang này tạo thành nhiều hình tượng sống động được người dân địa phương đặt như: voi uống nước chum, hùm uống nước vại, khỉ cõng con, bà lão bán thuốc, cây tiền, cây vàng, cây bạc, cây thóc…
MINH HẢI
Nhũ đá trong động còn lấp lánh, màu sắc thay đổi theo ánh mặt trời. Khi dùng đá gõ nhẹ vào nhũ đá thì phát ra âm thanh như tiếng chuông.
MINH HẢI
Dưới chân núi là chùa Địch Lộng và đình đá thờ Lý Quốc Sư, dân gian còn gọi Thánh Nguyễn
MINH HẢI
Động Địch Lộng được vua Minh Mạng ban tặng là “Nam thiên đệ tam động” – động đẹp thứ ba ở trời Nam. Đến năm 1990 động và chùa Địch Lộng được xếp hạng là di tích cấp quốc gia.
Trang web này sử dụng Cookie để nâng cao trải nghiệm duyệt web của bạn và cung cấp các đề xuất được cá nhân hóa. Bằng cách chấp nhận để sử dụng trang web của chúng tôi